4G là công nghệ mạng di động thế hệ thứ tư, kế thừa 3G và trước 5G. 4G được định nghĩa bởi Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU) vào năm 2008 với các yêu cầu về tốc độ truy cập dữ liệu cao, hỗ trợ nhiều ứng dụng đa phương tiện và khả năng tương thích với các hệ thống mạng di động khác. 4G cung cấp tốc độ truy cập dữ liệu cao hơn nhiều so với 3G, lên tới 1 Gbps trong điều kiện lý tưởng. Điều này cho phép người dùng tải xuống video, chơi game trực tuyến và thực hiện các tác vụ khác yêu cầu nhiều băng thông.
Tháng 12 năm 2010, ITU mở rộng định nghĩa 4G của mình để bao gồm LTE, WiMAX và HSPA+ để phản ánh sự phát triển của công nghệ mạng di động và để đảm bảo rằng các nhà sản xuất thiết bị và nhà cung cấp dịch vụ có thể sử dụng thuật ngữ 4G một cách thống nhất.[1]
Tiêu chuẩn WiMAX phiên bản đầu tiên được triển khai thương mại ở Hàn Quốc vào năm 2006 và kể từ đó đã được triển khai ở hầu hết các nơi trên thế giới. Tiêu chuẩn LTE phiên bản đầu tiên được triển khai thương mại ở Oslo, Na Uy và Stockholm, Thụy Điển vào năm 2009. Kể từ đó, LTE đã được triển khai ở hầu hết các nơi trên thế giới. Tuy nhiên, các phiên bản phát hành đầu tiên của LTE không đáp ứng tất cả các yêu cầu của tiêu chuẩn này. Vì vậy, liệu các phiên bản này có nên được coi là 4G hay không vẫn còn là vấn đề tranh cãi.
Mỗi thế hệ công nghệ mạng di động không dây đều mang lại tốc độ băng thông và dung lượng mạng cao hơn. 4G có tốc độ tải xuống lên đến 150 Mbit/s và tốc độ tải lên 50 Mbit/s, trong khi 3G có tốc độ tải xuống tối đa là 7.2 Mbit/s và tốc độ tải lên 2 Mbit/s..[2]
Tính đến năm 2021,[cập nhật] công nghệ 4G chiếm 58% thị trường công nghệ viễn thông di động toàn cầu.[3]