Aphrodite | |
---|---|
Nữ thần của tình yêu, tình dục và sắc đẹp | |
Thành viên của Mười hai vị thần trên đỉnh Olympus | |
![]() Aphrodite Pudica (bản sao chép La Mã thế kỷ thứ 2 CN), Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia, Athens | |
Nơi ngự trị | Núi Ólympos |
Hành tinh | Kim Tinh |
Biểu tượng | Cá heo, Hoa hồng, Vỏ sò điệp, Myrtus, Bồ câu, Sẻ, Dây nịt, Gương, Ngọc trai và Thiên nga |
Ngày | Thứ Sáu (hēméra Aphrodítēs) |
Thông tin cá nhân | |
Cha mẹ | Zeus và Dione (theo Homeros)[2] Uranus (theo Hesiod)[3] |
Anh chị em | Aeacus, Angelos, Apollo, Ares, Artemis, Athena, Dionysus, Eileithyia, Enyo, Eris, Ersa, Hebe, Helen thành Troy, Hephaestus, Heracles, Hermes, Minos, Pandia, Persephone, Perseus, Rhadamanthus, những Grace, những Horae, những Litae, những Muse, những Moirai, hoặc những Titan, những Cyclops, những Meliae, những Erinyes, những người khổng lồ, những Hekatonkheires |
Phối ngẫu | Hephaestus, Ares, Poseidon, Hermes, Dionysus, Adonis, và Anchises |
Con cái | Với Ares: Eros,[1] Phobos, Deimos, Harmonia, Pothos, Anteros, Himeros, Adrestia, Với Hermes: Hermaphroditus, Với Poseidon: Rhodos, Eryx, Với Dionysus: Peitho, Charites, Priapus, Với Anchises: Aeneas |
Tương ứng | |
Tương ứng La Mã | Venus |
Tương ứng Bắc Âu | Freyja |
Tương ứng Etrusca | Turan |
Tương ứng Hindu | Rati |
Tương ứng Canaan | Astarte |
Tương ứng Lưỡng Hà | Inanna/Ishtar |
Tương ứng Hỏa giáo | Anahita |
Tương ứng Ai Cập | Hathor |
Aphrodite (Việt hóa: Aphrôđit/Aphrôđitê/Aphrôđitơ, tiếng Hy Lạp cổ: Ἀφροδίτη, đã Latinh hoá: Aphrodítē, phát âm tiếng Hy Lạp Attica: [a.pʰro.dǐː.tɛː], tiếng Hy Lạp Koine [a.ɸroˈdi.te̝], tiếng Hy Lạp hiện đại: [a.froˈði.ti]) là nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với tình yêu, tình dục, sắc đẹp, niềm vui, đam mê và phồn thực. Hình tượng của bà sau này được hỗn dung với nữ thần Venus của La Mã. Những biểu trưng chính của Aphrodite bao gồm hương đào, hoa hồng, chim bồ câu, chim sẻ và thiên nga. Tục thờ cúng Aphrodite bắt nguồn từ tục thờ cúng nữ thần Astarte của người Phoenicia và có cùng nguồn gốc với nữ thần Đông Semit tên là Ishtar, căn nguyên chính là tục thờ nữ thần Inanna của người Sumer cổ. Cythera, Cyprus, Corinth và Athens xưa kia là những trung tâm chính sùng bái Aphrodite. Cứ đến hạ chí hằng năm, người Hy Lạp lại tổ chức lễ hội Aphrodisia để tôn vinh Aphrodite. Tại vùng Laconia, bà được tôn thờ như một nữ thần chiến binh. Ngoài ra, bà còn là nữ thần bảo trợ của mại dâm và "mại dâm thiêng liêng", một khái niệm văn hóa Hy-La cổ đại hiện đã bị hầu hết giới nghiên cứu thần thoại bác bỏ.
Theo tác phẩm Theogonía của Hēsíodos, Aphrodite sinh ra ngoài khơi Cythera từ bọt biển (ἀφρός, aphrós) tạo ra bởi bộ phận sinh dục của thần Uranus, bị chính con trai mình là Cronus cắt đứt rồi ném xuống biển. Tuy nhiên, sử thi Iliad của Hómēros lại kể rằng bà là con gái của Zeus và Dione. Trong tác phẩm Yến hội, Platon cho rằng hai câu chuyện này kể về hai vị thần khác nhau: Aphrodite Ourania thuộc về trời và Aphrodite Pandemos thuộc về toàn dân gian. Aphrodite còn có nhiều tính ngữ khác ở từng địa phương. Chẳng hạn như Cytherea và Cypris, bởi tương truyền bà sinh ra ở một trong hai nơi đó.
Trong thần thoại Hy Lạp, Aphrodite kết hôn với Hephaestus, vị thần của thợ rèn và gia công. Tuy vậy, Aphrodite không chung thủy và có rất nhiều tình nhân. Trong sử thi Odýsseia, bà bị bắt gặp ngoại tình với vị thần chiến tranh Ares. Trong bài thánh ca Homeros đầu tiên cho Aphrodite, bà quyến rũ chàng chăn cừu trần thế Anchises. Aphrodite còn là mẹ nuôi và tình nhân của chàng chăn cừu phàm trần Adonis, sau này chàng ta bị một con lợn rừng húc chết. Trong thiên sử Iliad, cuộc thi sắc đẹp giữa 3 nữ thần Aphrodite, Athena và Hera đã khơi mào cuộc chiến thành Troia đẫm máu. Aphrodite được coi là biểu tượng của vẻ đẹp phụ nữ trong nghệ thuật phương Tây, một hình tượng rất nổi tiếng trong các tác phẩm văn học phương Tây. Aphrodite là vị thần chính trong nhiều tôn giáo Tân Pagan hiện đại bao gồm Giáo hội Aphrodite, Wicca và Hellenismos.