![]() | Bài viết này có nhiều vấn đề. Xin vui lòng giúp cải thiện hoặc thảo luận về những vấn đề này bên trang thảo luận. (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa những thông báo này)
|
![]() | Bạn có thể mở rộng bài này bằng cách dịch bài viết tương ứng từ Tiếng Anh. (tháng 11/2023) Nhấn [hiện] để xem các hướng dẫn dịch thuật.
|
Assyria
|
|||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
2500 TCN–609 TCN[1] | |||||||||||
![]() | |||||||||||
Thủ đô | Aššur (2500–1754 BC) Shubat-Enlil (1754–1681 BC) Aššur (1681–879 BC) Kalhu (879–706 BC) Dur-Sharrukin (706–705 BC) Nineveh (705–612 BC) Harran (612–609 BC) | ||||||||||
Ngôn ngữ chính thức | |||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Akkadian Eastern Aramaic | ||||||||||
Tôn giáo chính | Ancient Mesopotamian religion, later Syriac Christian | ||||||||||
Chính trị | |||||||||||
Chính phủ | Quân chủ chuyên chế | ||||||||||
King | |||||||||||
• c. 2500 TCN | Tudiya (first) | ||||||||||
• 612–609 TCN | Ashur-uballit II (last) | ||||||||||
Lịch sử | |||||||||||
Thời kỳ | Thời đại đồ đồng | ||||||||||
• Kikkiya overthrown | 2500 TCN | ||||||||||
• Suy vong | 612 TCN 609 TCN[1] | ||||||||||
Địa lý | |||||||||||
Diện tích | |||||||||||
• | 194 249[2] km2 (Lỗi biểu thức: Dư số mi2) | ||||||||||
Kinh tế | |||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Mina[3] | ||||||||||
|
Assyria là một vương quốc của người Akkad, ban đầu tồn tại với tư cách nhà nước từ cuối thế kỷ 25 hoặc đầu thế kỉ 24 trước Công nguyên đến năm 608 trước Công nguyên [4] với trung tâm ở thượng nguồn sông Tigris, phía bắc Lưỡng Hà (ngày nay là miền bắc Iraq), về sau vươn lên trở thành một đế quốc thống trị khu vực một vài lần trong lịch sử. Nó được đặt tên theo kinh đô ban đầu của nó, thành phố cổ Assur (tiếng Akkad: 𒀸 𒋗 𒁺 𐎹 Aššūrāyu; tiếng Aramaic: אתור Aṯur, tiếng Do Thái: אַשּׁוּר Aššûr; tiếng Ả Rập: آشور Āšūr). Assyria được cũng đôi khi được gọi là Subartu, và sau khi nó sụp đổ, từ năm 605 trước Công nguyên cho đến cuối thế kỷ 7, nó được gọi với các tên khác như Athura, Syria (tiếng Hy Lạp), Assyria (tiếng Latin) và Assuristan. Người Assyria Thiên chúa giáo hiện nay là một dân tộc thiểu số ở miền bắc Iraq, phía đông bắc Syria, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ và phía tây bắc Iran là con cháu của người Assyria cổ xưa [5][6]
Assyria vào buổi ban đầu vốn chỉ là một tiểu quốc của người Akkad. Từ cuối thế kỷ 24 trước Công nguyên, các vị vua Assyria chắc chắn chỉ là các vị vua địa phương, và lệ thuộc vua Sargon của Akkad, người đã thống nhất tất cả các cư dân nói tiếng Akkad ở Lưỡng Hà vào Đế chế Akkad kéo dài từ năm 2334 trước Công nguyên đến năm 2154 trước Công nguyên.
Trong giai đoạn Cổ Assyria vào đầu thời kỳ đồ đồng, Assyria đã là một vương quốc phía bắc vùng Lưỡng Hà (miền bắc Iraq ngày nay), ban đầu nó cạnh tranh sự thống trị khu vực này với những tiểu quốc Sumer-Akkad đồng bào của họ ở miền nam Lưỡng Hà, ngoài ra còn với người Hatti và người Hurri phía bắc ở Tiểu Á, người Guti về phía đông dãy núi Zagros và người Eblaite và người Amorite sau này ở miền Cận Đông về phía tây. Trong thế kỷ 20 trước Công nguyên, nó đã thành lập các thuộc địa ở Tiểu Á, và dưới thời vua Ilushuma, nó đã khẳng định sự thống trị của mình trên toàn bộ miền nam Lưỡng Hà. Từ cuối thế kỷ 19 TCN, Assyria đã tham gia vào cuộc chiến với nhà nước Babylon mới được thành lập mà cuối cùng đã làm lu mờ hoàn toàn các quốc gia Sumer-Akkad ở phía nam. Assyria đã trải qua giai đoạn vận mệnh thất thường trong thời kì Trung Assyria. Assyria đã có một khoảng thời gian trở thành một đế chế dưới thời Shamshi-Adad I và Ishme-Dagan trong thế kỷ 19 và 18 trước Công nguyên. Sau này nó trải qua một giai đoạn ngắn nằm dưới sự thống trị của Babylon và người Mitanni-Hurri trong thế kỷ 18 và 15 trước Công nguyên tương ứng, và trải qua một thời kì cực kì hùng mạnh và trở thành một cường quốc từ năm 1365 TCN đến năm 1076 TCN, bao gồm các Triều đại của các vị vua vĩ đại như Ashur uballit I, Arik-den-ILI, Tukulti-Ninurta I và Tiglath-Pileser I. Bắt đầu với các chiến dịch của Adad-nirari II vào năm 911 TCN,[4] nó một lần nữa trở thành một siêu cường trong hơn 3 thế kỷ tiếp theo, lật đổ Triều đại thứ 25 của Ai Cập và chinh phục Ai Cập,[4]Babylon, Elam, Urartu / Armenia, Media, Ba Tư, Mannea, Gutium, Phoenicia / Canaan, Aramea (Syria), Arabia, Israel, Judah, Edom, Moab, Samarra, Cilicia, Cộng hòa Síp, Chaldea, Nabatea, Commagene, Dilmun và người Hurrian, Sutu và Tân-Hittite, đánh đuổi người Ethiopia và người Nubia khỏi Ai Cập,[4] đánh bại người Cimmeria và Scythia và đòi hỏi cống nạp từ Phrygia, Magan và Punt.[4] Sau khi nó sụp đổ, (giữa năm 612 TCN và 605 TCN), Assyria tồn tại như một tỉnh và một đơn vị địa chính trị dưới sự cai trị của người Babylon, Medes, Achaemenid, Seleucid, Parthia, La Mã và đế quốc Sassanid cho đến tận cuộc xâm lược và chinh phục Lưỡng Hà của người Hồi giáo Ả Rập vào giữa thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên, khi nó cuối cùng đã bị giải thể[7]