Chaldea[1] (/kælˈdiːə/, hay Chaldaea[2]) là một quốc gia tồn tại từ khoảng cuối thế kỷ 10 hoặc đầu thế kỷ 9 cho đến giữa thế kỷ 6 TCN ở Lưỡng Hà, sau đó lãnh thổ và dân cư của nó dần sáp nhập và đồng hóa vào Babylonia.[3] Chaldea là đất nước nói tiếng Semit, nằm ở vùng đầm lầy cực đông nam Lưỡng Hà và có một thời gian ngắn cai trị Babylon. Kinh thánh tiếng Do Thái sử dụng thuật ngữ כשדים (Kaśdim), được dịch là Chaldaea, trong Cựu Ước Hy Lạp để chỉ dân tộc này, mặc dù có một số tranh cãi rằng Kasdim thực tế chỉ vùng Kaldu ở miền nam Lưỡng Hà.
Khi vương quốc Babylon nói tiếng Đông Semit suy tàn, các bộ tộc Tây Semit[4] từ Levant di cư đến khu vực này khoảng giữa thế kỷ 11 và thế kỷ 9 TCN. Những làn sóng đầu tiên bao gồm người Sutu và Aram, sau đó khoảng 1 thế kỷ là người Kaldu, sau này được biết đến là người Chaldea hoặc Chaldee. Từ thế kỷ 9 tới thế kỷ 6 TCN, Babylon nằm dưới ách đô hộ của đế quốc Tân Assyria.
Năm 620 TCN, nhân cơ hội Assyria suy yếu, người Chaldea nổi dậy giành quyền kiểm soát Babylon, thành lập đế quốc Tân Babylon, hay còn được biết đến là triều đại Chaldea.[5]
Cho đến thời điểm Babylon bị người Ba Tư thôn tính, tộc Chaldea đã mất quyền kiểm soát Babylonia trong nhiều thập kỷ và đồng hóa với dân bản địa Babylonia. Trong Đế chế Achaemenid của Ba Tư, thuật ngữ Chaldea đã không còn dùng để chỉ một chủng tộc người, mà thay vào đó là đẳng cấp tu sĩ có học vấn về Babylon cổ điển, cụ thể là Thiên văn học và Chiêm tinh. Vào giữa thời Đế chế Seleucid (312-150 TCN), thuật ngữ này cũng đã không còn được sử dụng.
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Georges Roux - Ancient Iraq2