Our website is made possible by displaying online advertisements to our visitors.
Please consider supporting us by disabling your ad blocker.

Responsive image


Coldplay

Coldplay
Thông tin nghệ sĩ
Tên gọi khác
  • Starfish (1996–1998)
  • Los Unidades (2018)
Nguyên quánLondon, Anh
Thể loại
Năm hoạt động1996–nay
Hãng đĩa
Thành viên
Websitecoldplay.com

Coldplay là một ban nhạc rock người Anh được thành lập tại London vào năm 1996.[1][2] Ban nhạc bao gồm giọng ca chính, tay guitar đệm và piano Chris Martin, tay guitar chính Jonny Buckland, tay bass Guy Berryman, tay trống Will Champion và giám đốc sáng tạo Phil Harvey.[3][4][5] Họ gặp nhau tại Đại học College London và bắt đầu chơi nhạc cùng nhau từ năm 1996 đến 1998, đầu tiên họ tự gọi mình là Pectoralz và sau đó là Starfish.[6][3]

Coldplay đã phát hành hai EP, Safety vào năm 1998 và The Blue Room vào năm 1999. EP thứ hai là bản phát hành đầu tiên của họ dưới một hãng thu âm lớn, Parlophone.[7] Coldplay đã đạt được sự nổi tiếng trên toàn thế giới với việc phát hành bài hát "Yellow" vào năm 2000, cùng năm đó là album đầu tay của họ Parachutes, đã được đề cử cho Mercury Prize. Album thứ hai của ban nhạc, A Rush of Blood to the Head (2002), đã được phát hành với sự hoan nghênh của giới phê bình. Album tiếp theo của họ, X&Y, là album bán chạy nhất trên toàn thế giới năm 2005; album phòng thu thứ tư do Brian Eno sản xuất, Viva la Vida or Death and All His Friends (2008), là album bán chạy nhất trên toàn thế giới năm đó và mang về cho ban nhạc 3 giải Grammy. Vào năm 2011, Coldplay phát hành album phòng thu thứ năm của họ, Mylo Xyloto, đứng đầu bảng xếp hạng tại hơn 34 quốc gia và là album nhạc rock bán chạy nhất năm 2011 tại Vương quốc Anh.[8] Kể từ đó, ban nhạc đã phát hành Ghost Stories (2014), A Head Full of Dreams (2015) và Everyday Life (2019). Vào năm 2021, họ phát hành album phòng thu thứ chín, Music of the Spheres.

Coldplay đã bán được hơn 100 triệu bản album trên toàn thế giới, đưa nhóm trở thành một trong những nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa chạy nhất thế giới.[9] Họ đã giành được nhiều giải thưởng trong suốt sự nghiệp của mình, bao gồm 9 giải Brit Awards, 7 giải MTV Video Music Awards, 9 giải MTV Europe Music Awards và 7 giải Grammy Awards từ 35 đề cử.[10][11] Ba album đầu tiên của ban nhạc — Parachutes (2000), A Rush of Blood to the Head (2002) và X&Y (2005) — nằm trong số những album bán chạy nhất trong lịch sử bảng xếp hạng Vương quốc Anh.[12]

Vào tháng 12 năm 2009, độc giả của Rolling Stone đã bình chọn nhóm là nghệ sĩ xuất sắc thứ tư của những năm 2000 và tạp chí Q đã đưa nhóm vào danh sách Nghệ sĩ của thế kỷ.[13] Coldplay đã ủng hộ tích cực các hoạt động từ thiện mang tính chính trị, chẳng hạn như chiến dịch Make Trade Fair của OxfamÂn xá Quốc tế. Họ cũng đã thực hiện tại các dự án từ thiện, bao gồm Band Aid 20, Live 8, Global Citizen Festival, Sound Relief, Hope for Haiti Now: A Global Benefit for Earthquake Relief, One Love Manchester, The Secret Policeman's Ball, Sport Relief và Teenage Cancer Trust của Anh.[14]

  1. ^ “Coldplay Timeline”. Site by Rabbit Hole. Parlophone. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2021.
  2. ^ Wallenfeldt, Jeff. “Coldplay”. britannica.com.
  3. ^ a b “Newsreel: An appeal to Wikipedia enthusiasts”. Coldplay Official Website. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2016.
  4. ^ “They played a tiny café… there were four people in the audience”. Music Business Worldwide (bằng tiếng Anh). ngày 26 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2021.
  5. ^ Bhattacharya, Surya (ngày 2 tháng 1 năm 2015). “The Faze Interview With Coldplay”. Faze (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2021.
  6. ^ (Roach 2003, tr. 19)
  7. ^ Larkin, Colin (ngày 27 tháng 5 năm 2011). The Encyclopedia of Popular Music. Omnibus Press. ISBN 978-0857125958. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2021.
  8. ^ “Coldplay, Noel Gallagher and Foo Fighters revealed as biggest selling rock acts of 2011”. NME.COM. ngày 17 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2014.
  9. ^ “Multi million-selling music icons Coldplay confirmed for BRITs”. BPI (bằng tiếng Anh). The BRIT Awards 2021 announce that Coldplay, one of the world’s biggest bands with over 100 million album sales worldwide to date, will be opening this year’s show on 11th May. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2021.Quản lý CS1: khác (liên kết)
    • “Higher Power (Official Video)”. Parlophone Records. Since forming at university in London, Coldplay have gone on to become one of the planet’s most popular acts, selling more than 100 million copies of their eight Number One albums [...] ngày 8 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2021.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  10. ^ “Coldplay”. GRAMMY.com (bằng tiếng Anh). ngày 23 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2020.
  11. ^ “Chris Martin”. GRAMMY.com (bằng tiếng Anh). ngày 23 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2020.
  12. ^ Copsey, Rob (ngày 4 tháng 7 năm 2016). “The UK's 60 official biggest selling albums of all time revealed”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2018.
  13. ^ “UK's 'Q' Magazine Lists Their Artists Of The Century!”. Thelifefiles.com. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2011.
  14. ^ (Roach 2003, tr. 122)

Previous Page Next Page






Coldplay AF Coldplay AN كولدبلاي Arabic كولدبلاى ARZ ক'ল্ডপ্লে AS Coldplay AST Coldplay AZ کلدپلی AZB Coldplay BAN Coldplay BCL

Responsive image

Responsive image