Manila Maynilà | |
---|---|
— Thành phố thủ đô — | |
Thành phố Manila City of Manila Lungsod ng Maynilà | |
Tên hiệu: Pearl of the Orient[1] The City of Our Affections Distinguished and Ever Loyal City | |
Bản đồ Vùng đô thị Manila thể hiện vị trí của thành phố Manila | |
Bản đồ Philippines thể hiện vị trí của Manila | |
Tọa độ: 14°35′B 120°58′Đ / 14,583°B 120,967°Đ | |
Quốc gia | Philippines |
Vùng | Vùng thủ đô quốc gia |
Vương quốc Maynila | k.1500 |
Thành phố Tây Ban Nha Manila | 24 tháng 6 năm 1571 |
Người sáng lập | Miguel López de Legazpi |
Barangay | 897 |
Diện tích[2] | |
• Thành phố | 38,55 km2 (1,488 mi2) |
• Đô thị | 1.474,82 km2 (56,943 mi2) |
• Vùng đô thị | 638,55 km2 (24,655 mi2) |
Độ cao | 16,0 m (520 ft) |
Dân số (2010)[4] | |
• Thành phố | 1.652.171 |
• Mật độ | 42.857/km2 (111,000/mi2) |
• Đô thị | 21.241.000 ('13)[3] |
• Mật độ đô thị | 15,400/km2 (39,89/mi2) |
• Vùng đô thị | 11.855.975 |
• Mật độ vùng đô thị | 18.567/km2 (48,090/mi2) |
Múi giờ | Giờ chuẩn Philippines |
Mã bưu chính | 0900 dến 1096 |
Mã điện thoại | 2 |
Thành phố kết nghĩa | Acapulco de Juárez, Astana, Băng Cốc, Bắc Kinh, Bucharest, Cartagena, Colombia, Quảng Châu, Haifa, La Habana, Thành phố Hồ Chí Minh, Incheon, Jakarta, Thành phố Jersey, Lima, Lyon, Madrid, Málaga, Quận Maui, Thành phố México, Montréal, Moskva, New Delhi, Nice, Ōsaka, Sacramento, San Francisco, Santiago de Chile, Seberang Perai, Sydney, Đài Trung, Đài Bắc, Takatsuki, Tehran, Winnipeg, Yokohama, Santiago de Cali, Guam, Busan, Quận Honolulu, Thượng Hải, Thành phố Panama, Santa Barbara, Los Angeles, Laval, Phúc Châu |
Website | manila |
Manila (phát âm tiếng Anh Philippines: /məˈnɪlə/; tiếng Tagalog: Maynilà, [majˈnilaʔ]) là thủ đô và là thành phố lớn thứ hai của Philippines. Đây là một trong 16 thành phố thuộc Vùng đô thị Manila với tổng dân số khoảng 12 triệu người. Diện tích của Manila là 38,55 km².[2] Năm 2010, dân số thành phố là 1.652.17 người[4] và là thành phố có mật độ dân số cao nhất trên thế giới.[5][6]
Manila cùng với Vùng đô thị Manila là trung tâm kinh tế và chính trị của Philippines, thương nghiệp phát triển và có một số cảnh quan có tầm quan trọng đáng kể về lịch sử và văn hóa tại Philippines. Manila là nơi đặt trụ sở của các nhánh hành pháp và tư pháp của chính phủ trung ương. Manila được xác định là một thành phố toàn cầu, có nhiều cơ cấu khoa học và giáo dục, cơ sở thể thao, và những địa điểm văn hóa lịch sử quan trọng khác.[7]
Ghi chép sớm nhất về thành phố là trong thế kỷ 10. Sau đó, khu vực thành phố trở thành bộ phận của Đế quốc Majapahit, rồi bị Brunei xâm chiếm. Đến thế kỷ 15, khu vực bị Hồi giáo hóa trên danh nghĩa cho đến khi những nhà chinh phục người Tây Ban Nha đến. Manila cuối cùng trở thành trung tâm cho các hoạt động của Tây Ban Nha tại Viễn Đông, là một đầu của tuyến mậu dịch thuyền buồm Manila-Acapulco kết nôi châu Âu, Mỹ Latinh và châu Á. Sau đó, tại Manila xảy ra một số cuộc khởi nghĩa của người Hoa và của người bản địa, Anh Quốc chiếm đóng, và binh biến Sepoy.[8] Cuối thế kỷ 19, người Mỹ thay thế người Tây Ban Nha cai trị Philippines, họ có những đóng góp về quy hoạch đô thị của thành phố[9] song hầu hết các tiến bộ này biến mất do sự tàn phá trong Chiến tranh thế giới thứ hai.[10] Kể từ đó, thành phố được tái thiết và phát triển nhanh chóng.
Manila, modernized and elevated to the status of a metropolis by American engineering skill, was before Pearl Harbor a city of 623,000 population, contained in an area of fourteen square miles.