Da

Cấu tạo da người
Da của voi

Da là lớp mô bên ngoài, thường mềm và đàn hồi bao phủ cơ thể của động vật có xương sống. Da có ba chức năng chính: bảo vệ, điều tiết và cảm giác.[1]

Các lớp phủ động vật khác, chẳng hạn như bộ xương ngoài của động vật chân đốt, có nguồn gốc phát triển, cấu trúc và thành phần hóa học khác nhau. Ở động vật có vú, da là một cơ quan của hệ bì được tạo thành từ nhiều lớp ngoại bì và bảo vệ các , xương, dây chằng và các cơ quan nội tạng bên dưới. Da của động vật lưỡng cư, bò sátchim có bản chất khác nhau.[2] Da (bao gồm cả mô da và mô dưới da) đóng những vai trò quan trọng trong việc hình thành, cấu trúc và chức năng của bộ phận xương ngoài như sừng của các loài bò (ví dụ: gia súc) và tê giác, gạc hươu, sừng hươu cao cổ và vảy của Tatu chín đai.[3]

Tất cả các loài động vật có vú đều có một ít lông trên da, ngay cả những loài động vật có vú ở biển như cá voicá heo. Da tiếp xúc với môi trường và là hàng phòng thủ đầu tiên khỏi các yếu tố bên ngoài. Ví dụ, da đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể chống lại các mầm bệnh[4] và sự mất nước.[5] Các chức năng khác của nó là cách nhiệt, điều hoà nhiệt độ, nhận diện cảm giác và liên quan mật thiết đến sản xuất vitamin D. Da bị tổn thương nghiêm trọng có thể lành lại bằng cách hình thành mô sẹo. Các mô này đôi khi bị biến màu và mất sắc tố. Độ dày của da cũng thay đổi theo từng vị trí trên cơ thể. Ví dụ ở người, vùng da nằm dưới mắt và xung quanh mí mắt là vùng da mỏng nhất trên cơ thể với độ dày 0,5 mm và là một trong những vùng da đầu tiên xuất hiện các dấu hiệu lão hóa như vết chân chim và nếp nhăn. Da lòng bàn tay và lòng bàn chân là vùng da dày nhất trên cơ thể, dày 4 mm. Tốc độ và chất lượng chữa lành vết thương trên da được thúc đẩy bởi sự tiếp nhận estrogen.[6][7][8]

  1. ^ “Structure And Function Of The Skin | Wound Care Education”. CliniMed (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2019.
  2. ^ Alibardi, Lorenzo (ngày 15 tháng 8 năm 2003). “Adaptation to the land: The skin of reptiles in comparison to that of amphibians and endotherm amniotes”. Journal of Experimental Zoology. 298B (1): 12–41. doi:10.1002/jez.b.24. PMID 12949767.
  3. ^ Nasoori, Alireza (tháng 8 năm 2020). “Formation, structure, and function of extra‐skeletal bones in mammals”. Biological Reviews. 95 (4): 986–1019. doi:10.1111/brv.12597. PMID 32338826. S2CID 216556342.
  4. ^ Proksch, Ehrhardt; Brandner, Johanna M.; Jensen, Jens-Michael (tháng 12 năm 2008). “The skin: an indispensable barrier”. Experimental Dermatology. 17 (12): 1063–1072. doi:10.1111/j.1600-0625.2008.00786.x. PMID 19043850. S2CID 31353914.
  5. ^ Madison, Kathi C. (tháng 8 năm 2003). “Barrier Function of the Skin: 'La Raison d'Être' of the Epidermis”. Journal of Investigative Dermatology. 121 (2): 231–241. doi:10.1046/j.1523-1747.2003.12359.x. PMID 12880413.
  6. ^ Thornton, M. J. (tháng 12 năm 2002). “The biological actions of estrogens on skin: Estrogens and skin”. Experimental Dermatology. 11 (6): 487–502. doi:10.1034/j.1600-0625.2002.110601.x. PMID 12473056.
  7. ^ Ashcroft, Gillian S.; Greenwell-Wild, Teresa; Horan, Michael A.; Wahl, Sharon M.; Ferguson, Mark W.J. (tháng 10 năm 1999). “Topical Estrogen Accelerates Cutaneous Wound Healing in Aged Humans Associated with an Altered Inflammatory Response”. The American Journal of Pathology. 155 (4): 1137–1146. doi:10.1016/S0002-9440(10)65217-0. PMC 1867002. PMID 10514397.
  8. ^ Desiree May Oh, MD, Tania J. Phillips, MD (2006). “Sex Hormones and Wound Healing”. Wounds. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2013.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)

Da

Dodaje.pl - Ogłoszenia lokalne