Penicillin

Penicillin
Cấu trúc nhân của Penicillin, với "R" là nhóm bất kỳ.
Dữ liệu lâm sàng
AHFS/Drugs.comThông tin tiêu dùng chi tiết Micromedex
Danh mục cho thai kỳ
  • US: B (Không rủi ro trong các nghiên cứu không trên người) [1]
Dược đồ sử dụngTiêm tĩnh mạch, Tiêm bắp, by mouth
Tình trạng pháp lý
Tình trạng pháp lý
  • Nói chung: ℞ (Thuốc kê đơn)
Dữ liệu dược động học
Chuyển hóa dược phẩmGan
Chu kỳ bán rã sinh họcTừ 0,5 đến 56 giờ
Bài tiếtKidneys

Penicillin là một nhóm kháng sinh thu được từ nấm Penicillium hay được điều chế. Vào năm 1928, trong lúc quan sát một số đĩa Petri có chứa vi khuẩn Staphylococcus (hay tụ cầu khuẩn), Alexander Fleming đã nhận thấy có điều gì đó kỳ lạ trong một đĩa: các cụm vi khuẩn Staphylococcus không xuất hiện trong khu vực có một loại nấm mốc đang phát triển. Đấy là loại nấm sau này được xác định là Penicillium notatum (hay Penicillium chrysogenum) [2]. Phải 10 năm sau thì penicillin mới được nhà hoá sinh người Anh gốc Đức Ernst Boris Chain và nhà nghiên cứu bệnh học Úc Howard Florey và một số nhà khoa học khác nghiên cứu kỹ. Người ta bắt đầu sử dụng nó để điều trị nhiễm trùng vào năm 1942.[3] Tuy nhiên, nếu không có khoảnh khắc tình cờ của Alexander Fleming thì việc sản xuất quy mô lớn penicillin như một loại thuốc kháng sinh để điều trị cho con người trong Thế chiến thứ hai đã không thể xảy ra.[4]

Có một số họ penicillin tăng cường có hiệu quả chống lại các vi khuẩn khác; chúng bao gồm penicillin chống tụ cầu khuẩn, aminopenicillinpenicillin kháng giả khuẩn. Chúng có nguồn gốc từ nấm Penicillium.[5] Fleming đã nhận chung giải Nobel Sinh lý và Y khoa năm 1945 cho khám phá của ông, cùng với các nhà khoa học Đại học Oxford Howard FloreyErnst Boris Chain (người đã phát triển các cách cải tiến để sản xuất và tập trung thuốc và chứng minh tác dụng kháng khuẩn của nó). Penicillin sát trùng bằng cách giết vi khuẩn và hạn chế sự sinh trưởng của chúng.

Khoảng 10% số người ghi nhận rằng họ bị dị ứng với penicillin; tuy nhiên, đến 90% nhóm này có thể không thực sự bị dị ứng.[6] Dị ứng nghiêm trọng chỉ xảy ra trong khoảng 0,03%.[6] Những người bị dị ứng với penicillin thường được dùng cephalosporin C vì các nhóm chức năng của nó.[7] Tất cả các penicillin đều là kháng sinh β-lactam, là một số thành tựu mạnh mẽ và thành công nhất trong khoa học hiện đại.[7]

  1. ^ Walling AD (15 tháng 9 năm 2006). “Tips from Other Journals – Antibiotic Use During Pregnancy and Lactation”. American Family Physician. 74 (6): 1035. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2015.
  2. ^ “Discovery and Development of Penicillin”. American Chemical Society. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2015.
  3. ^ Oxford Handbook of Infectious Diseases and Microbiology. OUP Oxford. 2009. tr. 56. ISBN 978-0-19-103962-1.
  4. ^ Vuong, Quan-Hoang (2022). A New Theory of Serendipity: Nature, Emergence and Mechanism. De Gruyter. ISBN 9788366675858.
  5. ^ “penicillin” – qua The Free Dictionary.
  6. ^ a b Gonzalez-Estrada A, Radojicic C (tháng 5 năm 2015). “Penicillin allergy: A practical guide for clinicians”. Cleveland Clinic Journal of Medicine. 82 (5): 295–300. doi:10.3949/ccjm.82a.14111. PMID 25973877. S2CID 6717270.
  7. ^ a b Kardos N, Demain AL (tháng 11 năm 2011). “Penicillin: the medicine with the greatest impact on therapeutic outcomes”. Applied Microbiology and Biotechnology. 92 (4): 677–87. doi:10.1007/s00253-011-3587-6. PMID 21964640. S2CID 39223087.

Penicillin

Dodaje.pl - Ogłoszenia lokalne